16 thg 10, 2020

Công ty chứng khoán không được lạm dụng tiền của khách hàng dưới mọi hình thức

Quản lý tiền của khách hàng để giao dịch chứng khoán luôn là một trong những vấn đề thu hút được sự quan tâm đặc biệt của nhà đầu tư với mục tiêu tăng cường giám sát, minh bạch, tránh việc lạm dụng tiền của khách hàng dưới mọi hình thức.


Ủy ban Chứng khoán Nhà nước hiện đang lấy ý kiến của các đơn vị, tổ chức, cá nhân đối với Dự thảo Thông tư thay thế Thông tư số 210/2012/TT-BTC ngày 30/11/2012 của Bộ Tài chính hướng dẫn thành lập và hoạt động của công ty chứng khoán. Trong đó, Dự thảo Thông tư nêu rõ một số quy định liên quan đến việc quản lý tiền của khách hàng để giao dịch chứng khoán.

Cụ thể, theo Điều 23 của Dự thảo Thông tư quy định về quản lý tiền của khách hàng, công ty chứng khoán phải quản lý tách bạch tiền gửi giao dịch chứng khoán của từng khách hàng, tách bạch tiền của khách hàng với tiền của công ty chứng khoán. Công ty chứng khoán không được trực tiếp nhận và chi trả tiền mặt để giao dịch chứng khoán của khách hàng mà phải thực hiện qua ngân hàng thương mại. Công ty chứng khoán không được lạm dụng tiền của khách hàng dưới mọi hình thức. Các giao dịch liên quan đến tiền của khách hàng chỉ được phép  thực hiện theo quy định của pháp luật.

Một trong những điểm mới so với Thông tư số 210/2012/TT-BTC của Bộ Tài chính là Dự thảo Thông tư bổ sung thêm quy định công ty chứng khoán và khách hàng có thể có thỏa thuận về tiền lãi đối  với số dư tiền trên tài khoản giao dịch chứng khoán của khách hàng.

Ngoài ra, cũng theo Dự thảo Thông tư, công ty chứng khoán phải xây dựng hệ thống quản lý tách bạch tiền của  khách hàng theo các phương thức sau để khách hàng lựa chọn:

Thứ nhất, khách hàng của công ty chứng khoán mở tài khoản trực tiếp tại ngân hàng thương mại do công ty chứng khoán lựa chọn để quản lý tiền giao dịch chứng  khoán. Trong phương thức này, khách hàng, công ty chứng khoán và ngân hàng thương mại có hợp đồng thỏa thuận về cách thức xác nhận, phong tỏa số dư tiền  và chuyển tiền thanh toán giao dịch chứng khoán của khách hàng. Sau khi lệnh mua chứng khoán của khách hàng được khớp, công ty chứng khoán có quyền yêu cầu ngân hàng nơi nhà đầu tư mở tài khoản thực hiện chuyển tiền tương ứng với  giá trị khớp lệnh vào tài khoản thanh toán giao dịch chứng khoán do công ty chứng khoán đứng tên mở tại ngân hàng thương mại do công ty chứng khoán lựa chọn.  Công ty chứng khoán có nghĩa vụ thay mặt cho khách hàng thực hiện thanh toán  giao dịch chứng khoán với các bên có liên quan.

Thứ hai, công ty chứng khoán mở tài khoản chuyên dụng tại ngân hàng thương mại để quản lý tiền gửi giao dịch chứng khoán của khách hàng. Tài khoản chuyên dụng phải mở riêng biệt và tách bạch với các tài khoản khác của công ty chứng khoán. Tài khoản chuyên dụng này chỉ phục vụ cho giao dịch của khách hàng, cụ thể: Khách hàng nộp, chuyển tiền vào tài khoản giao dịch chứng khoán; Khách hàng rút, chuyển tiền ra khỏi tài khoản giao dịch chứng khoán; Khách hàng thanh toán giao dịch chứng khoán; Khách hàng ký quỹ giao dịch, nộp tiền đấu giá mua chứng khoán; Khách hàng thanh toán thực hiện quyền mua chứng khoán; Các trường hợp thanh toán khác của khách hàng theo yêu cầu của khách  hàng và tuân thủ các quy định của pháp luật.

Công ty chứng khoán có trách nhiệm thiết lập hệ thống kế toán để quản lý  tiền gửi của từng nhà đầu tư. Công ty chứng khoán có nghĩa vụ xác định rõ số dư (nếu có) tại mọi thời điểm của từng khách hàng và cung cấp sao kê chi tiết số dư tiền (nếu có) của từng khách hàng bất cứ lúc nào theo yêu cầu của khách hàng hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Công ty chứng khoán có trách nhiệm đảm bảo thực hiện mọi yêu cầu rút, chuyển tiền của khách hàng trong phạm vi số dư tiền của khách hàng khi khách hàng không còn nghĩa vụ phải trả đối với công ty chứng khoán. Công ty chứng khoán không được nhận ủy quyền của khách hàng thực hiện chuyển tiền nội bộ giữa các tài khoản của các khách hàng. Đồng thời, phải công bố trên trang thông tin điện tử và tại các chi nhánh, phòng giao dịch của công ty chứng khoán danh sách ngân hàng thương mại được lựa chọn cho hai phương thức quản lý tiền giao dịch chứng khoán của  khách hàng.

Chậm nhất trong vòng 3 ngày làm việc kể từ ngày ký hợp đồng theo quy định, công ty chứng khoán phải báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước kèm theo bản sao hợp lệ hợp đồng giữa công ty chứng khoán và ngân hàng thương mại. Đồng thời, trước 16 giờ thứ hai hàng tuần hoặc ngày làm việc đầu tiên của tuần, công ty chứng khoán có tài khoản chuyên dụng phải báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước số lượng khách hàng, số dư tiền của khách hàng tại tài  khoản chuyên dụng của công ty chứng khoán mở tại ngân hàng thương mại theo mẫu quy định tại Phụ lục IV ban hành kèm theo Thông tư này. Số liệu báo cáo  nêu trên được chốt tại thời điểm cuối ngày làm việc liền trước ngày báo cáo.

Theo Tạp chí tài chính

0 comments:

Đăng nhận xét