19 thg 12, 2019

Vụ 7 công chức Bình Dương hầu toà: Viện Kiểm sát thừa nhận cáo trạng có sai sót

Ngày thứ 7 phiên toà xét xử sơ thẩm 7 công chức ở Bình Dương liên quan tới việc mua bán tài sản thế chấp là nhà đất tại xã An Tây, thị xã Bến Cát, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương đã thừa nhận cáo trạng có sai sót và bản thân kiểm sát viên đã không đính chính khi công bố cáo trạng.


Thừa nhận BIDV không phải là ngân hàng Nhà nước
Các bị cáo Nguyễn Hồng Khanh (Nguyên Bí thư Thị uỷ thị xã Bến Cát, Thường vụ Tỉnh uỷ Bình Dương); Ông Nguyễn Huy Hùng (Cựu Giám đốc Ngân hàng BIDV - Chi nhánh Tây Sài Gòn); Ông Nguyễn Quang Lộc (Cựu Phó Trưởng phòng quan hệ khách hàng doanh nghiệp 1), cùng bị truy tố về tội “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí” theo khoản 3, Điều 219, Bộ luật hình sự. Các tội danh này dựa trên quan điểm, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương cho rằng, vì BIDV thuộc sở hữu Nhà nước, nên việc định đoạt tài sản thế chấp sẽ ảnh hưởng đến số tiền BIDV cho vay, qua đó ảnh hưởng đến tài sản Nhà nước.

Bị cáo Nguyễn Hồng Khanh.

Tuy nhiên, tại phần tranh luận, các luật sư chỉ ra bằng chứng BIDV đã cổ phần hoá từ tháng 4/2012, vì vậy cáo trạng năm 2019 cho rằng BIDV là Ngân hàng Nhà nước đã không đúng với thực tiễn. Đối đáp về việc này, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương đã thừa nhận cáo trạng có sai sót và bản thân kiểm sát viên đã không đính chính khi công bố cáo trạng.

Các luật sư cho rằng, đây không chỉ là sai sót nhỏ, mà là sai sót nghiêm trọng về mặt quan điểm khi luận tội các bị cáo. Khi BIDV không phải là Ngân hàng Nhà nước, chỉ là ngân hàng cổ phần, có vai trò như một doanh nghiệp kinh doanh, thì việc quản lý sử dụng tài sản công do Nhà nước giao cho doanh nghiệp được thực hiện theo Luật quản lý, sử dụng vốn Nhà nước vào sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, Luật này (năm 2014) không hề quy định bán tài sản thế chấp tại doanh nghiệp là một nội dung thuộc phạm vi quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Như vậy, giả sử trong việc bán tài sản thế chấp có gây thất thoát tiền, thì thất thoát này cũng không phải tài sản Nhà nước.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương.

Hơn nữa, việc quản lý, sử dụng phần vốn Nhà nước tại BIDV, ở đây là 3.257.324.161 cổ phần thuộc về trách nhiệm của người được giao đại diện phần vốn Nhà nước, không phải các bị cáo. Vì vậy, theo các luật sư, với việc thừa nhận BIDV không phải là Ngân hàng Nhà nước của vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương, đồng nghĩa với việc khẳng định căn cứ luận tội các bị cáo vi phạm khoản 3, Điều 219, Bộ luật hình sự là không đúng.

Luật sư Trần Minh Hải.

“Việc đánh đồng tài sản thế chấp của bên bảo đảm tại ngân hàng thành tài sản Nhà nước là một sai lầm pháp luật trong vụ án này. Đây chính là điểm vô cùng bất thường gây ảnh hưởng lớn đến việc xác định chính xác căn cứ kết tội trong vụ án. Tôi khẳng định rằng, không có bất cứ tài sản Nhà nước nào bị tác động trong vụ án này”, Luật sư Trần Minh Hải nói.

Viện Kiểm sát phản biện mâu thuẫn?
Dù đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tại phiên toà thừa nhận BIDV không phải là Ngân hàng Nhà nước, chỉ là Ngân hàng cổ phần, thế nhưng vẫn cho rằng, việc mua bán tài sản thế chấp của các bị cáo Khanh, Hùng, Lộc trong trường hợp này làm thất thoát tài sản của Nhà nước. Viện Kiểm sát cho rằng BIDV chi nhánh Tây Sài Gòn đã nhận tài sản thế chấp của bà Hiệp làm tài sản đảm bảo cho các khoản vay. Tài sản đang thế chấp tại Ngân hàng, nên bà Hiệp không có quyền chuyển nhượng cho bị cáo Khanh. Sau này, khi bà Hiệp mất khả năng thanh toán, nên tài sản đảm bảo là tài sản của BIDV.

Các bị cáo Khanh, Hùng, Lộc đã vi phạm trong quá trình mua bán tài sản thế chấp. Tài sản thế chấp không được bán đấu giá, cũng không được định giá và khi bán cũng không đúng giá trị thực tế gây thiệt hại cho Nhà nước. Các bị cáo Hùng, Lộc không thực hiện đúng việc xử lý tài sản đảm bảo của BIDV. Các bị cáo đã vi phạm khoản 1, Điều 58, Nghị định 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ. Từ đó, Viện Kiểm sát vẫn bảo lưu quan điểm về việc truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội.

Tuy nhiên, Khoản 1, Điều 58, Nghị định 163/2006/NĐ-CP quy định: “Trong trường hợp tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện một nghĩa vụ thì việc xử lý tài sản đó được thực hiện theo thoả thuận của các bên; nếu không có thoả thuận thì tài sản được bán đấu giá theo quy định của pháp luật”. Việc thỏa thuận của các bên đã được thiết lập thành các Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và đã được chứng nhận tại cơ quan công chứng. Trong đó, có ghi nội dung thoả thuận khi xử lý tài sản thế chấp: “Bên thế chấp sẽ đứng chủ bán tài sản bảo đảm để trả nợ ngân hàng. Giá cả tối thiểu của tài sản thế chấp do hai bên thỏa thuận trên cơ sở mặt bằng giá tài sản cùng loại tại địa phương vào thời điểm dó. Giá bán tài sản thế chấp không được thấp hơn giá tối thiểu đã thỏa thuận. Thời hạn bán tài sản thế chấp do hai bên thống nhất”.

Luật sư Nguyễn Văn Quynh - bào chữa cho bị cáo Khanh cho biết quan hệ mua bán giữa bị cáo Khanh và bà Hiệp là quan hệ giao dịch dân sự.

Luật sư Nguyễn Văn Quynh - bào chữa cho bị cáo Khanh cho rằng: Quan hệ mua bán giữa bị cáo Khanh và bà Hiệp là quan hệ giao dịch dân sự, hợp pháp vì tất cả các hợp đồng mua bán đất đều đã qua công chứng và đã được cấp sổ. Tuy nhiên, Viện Kiểm sát cho rằng, hợp đồng dân sự giữa bị cáo Khanh và bà Hiệp đã không thực hiện đúng quy định, vì vậy cần huỷ bỏ toàn bộ hợp đồng mua bán.

Phiên toà vẫn tiếp tục kéo dài với phần tranh luận.
Tại phiên toà, đại diện Viện Kiểm sát thừa nhận, trong quá trình điều tra có vi phạm việc giao chậm kết quả thẩm định giá cho các bị cáo. (Theo quy định, khi có kết quả thẩm định giá phải giao trong vòng 7 ngày).

Đại diện Viện Kiểm sát cho biết, hiện cơ quan điều tra vẫn tiếp tục mở rộng điều tra vụ án và đã khởi tố vụ án lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Nguồn Báo Xây Dựng

0 comments:

Đăng nhận xét